Thông tin chi tiết của di sản

Tên Lễ hội mừng cơm mới
Địa chỉ Huổi Tao, Xã Nậm Giôn, Mường La, Tỉnh Sơn La
Huyện/Thành phố Mường La Xã/Phường/Thị trấn Xã Nậm Giôn
Mô tả chi tiết

LỄ HỘI MỪNG CƠM MỚI  CỦA DÂN TỘC KHÁNG BẢN HUỔI TAO

XÃ NẬM DÔN, HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

I. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN.

1. Tên gọi: Lễ hội Mừng Cơm Mới (Dát hả mả mía) của dân tộc Kháng trú tại bản Huổi Tao, xã Nậm Dôn, huyện Mường La, tỉnh Sơn La;

2. Ngành Kháng: Kháng trắng;

3. Thời gian tổ chức Lễ hội:

            Lễ hội Mừng Cơm Mới dân tộc Kháng bản Huổi Tao thường được tổ chức vào một ngày nhất định trong năm. Trước đây, do giống lúa cũ, thời gian sinh trưởng dài và do khí hậu nên lúa nương được trồng muộn khoảng tháng 5 - 6, thường gặt vào tháng 10 dương lịch nên Lễ hội Mừng Cơm Mới thường được tổ chức vào tháng 10. Hiện nay, giống lúa mới ngắn ngày hơn và do thời tiết thay đổi, khí hậu nóng hơn nên lúa được trồng sớm, khoảng cuối tháng 4- đầu tháng 5 là phải trồng xong (theo đồng bào, nếu trồng muộn hơn thường không được ăn) nên lúa gặt sớm hơn, cuối tháng 8 đầu tháng 9 là lúa đã chín, vì vậy lễ mừng cơm mới cũng theo đó mà được tổ chức sớm hơn.

            Tuỳ theo từng gia đình để chọn ngày tổ chức lễ mừng cơm mới cho phù hợp với gia đình mình, chọn ngày đẹp, không tổ chức vào ngày kiêng cữ của gia đình như ngày mất của ông bà, bố mẹ, người thân trong gia đình. Khi thấy lúa trên nương nhà mình đã chín thì tổ chức lễ mừng cơm mới sau đó tiến hành gặt lúa nương.

4. Địa điểm tổ chức Lễ hội:

             Được tổ chức tại các gia đình (lễ cúng trong nhà); lần lượt các gia đình trong bản đều tổ chức Lễ hội Mừng Cơm Mới:

            - Những gia đình nào mà bố mẹ đã mất (Tức là đã có ma nhà, được lập bàn thờ) thì tổ chức lễ cúng xong rồi mới ăn mừng cơm mới.

            - Những gia đình nào mà bố mẹ vẫn còn (tức là chưa được lập bàn thờ vì chưa có ma nhà) thì chỉ làm cơm ăn mừng cơm mới chứ không thực hiện nghi lễ cúng.

5. Thành phần tham gia lễ hội:

Phần lễ gồm: Gồm có ông chủ nhà, các ông bà họ hàng lớn tuổi, bố chồng, bố vợ.

Phần hội: Gia đình, họ hàng và đại diện các gia đình trong bản cùng tham dự.

II. MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA

1. Mục đích:

           Lễ hội nhằm cám ơn ông bà tổ tiên, những người đã "vất vả" suốt cả mùa vụ, do con cháu "nhờ trông nom" nương  rẫy, giờ đây mùa màng tươi tốt, lúa đã chín, đã đến lúc thu hoạch. Con cháu gặt lúa mới làm mâm cơm, chút lễ mời ông bà, tổ tiên về hưởng lộc, ăn cơm mới.

Lễ hội mừng cho một năm được mùa, cầu mong sang năm ông bà, tổ tiên tiếp tục phù hộ cho được mùa bội thu.

2. Ý nghĩa:

          Lễ hội Mừng Cơm Mới là nghi lễ nông nghiệp có tính chất tâm linh nhưng mang ý nghĩa tốt đẹp của một cộng đồng tộc người sống trên một địa bàn. Đây là lễ nghi, là nhu cầu tâm linh của người dân trong bản trước vòng quay của mùa vụ, cám ơn ông bà, tổ tiên đã phù hộ, đã “trông nom” nương rẫy để có một vụ mùa bội thu, cầu mong mùa tới lại tiếp tục được mùa.

            Là lễ hội mang tính chất gia đình nhưng có sự tham dự của họ hàng, đại diện các gia đình trong bản cùng  nhau vui vẻ sau một năm lao động vất vả.

           Trước đây, chưa theo tết cổ truyền dân tộc thì đây được coi là tết của người Kháng.

III. NỘI DUNG CỦA LÊ HỘI  MỪNG CƠM MỚI ( Dát hả mả mía)

          Lễ hội Mừng Cơm Mới được tổ chức trong nhà, tại mỗi gia đình của người Kháng ở các bản trong đó có bản Huổi Tao.

1. Công tác chuẩn bị:

1.1. Chọn địa điểm tổ chức:  

          Tổ chức trong gia đình những người đã lập bàn thờ, có thờ ma nhà.

1.2.Chọn chủ lễ (thày cúng):

           Chủ lễ thường là ông chủ trong gia đình, nếu ông chủ trong gia đình thành thạo thì lễ cúng kéo dài, ông chủ chưa thành thạo thì lễ cúng ngắn vì chưa biết nói bài khấn dài. Trong trường hợp chủ nhà không biết cúng khấn thì có thể mời thầy cúng trong bản nhưng trường hợp này cũng rất hãn hữu.

1.3. Chuẩn bị lễ vật:

1.3.1. Lễ vật để cúng: (do chủ nhà chuẩn bị)

           Đây là một lễ hội nông nghiệp nên lễ vật dùng để cúng chủ yếu là các sản vật được trồng từ nương rẫy. Khi làm nương, người Kháng thường làm một đám nương nhỏ, gieo lúa trước để lúa chín trước vừa dùng để cứu đói, vừa dùng làm lễ vật trong Lễ hội Mừng Cơm Mới. Khi lúa ở đám nương này chín thì người ta gặt về, chế biến chuẩn bị các lễ vật cho Lễ hội Mừng Cơm Mới. Ngoài ra, người ta ra suối quăng chài lấy cá săn bắt côn trùng, thú rừng về để chế biến các món làm đồ lễ. Trên mâm càng nhiều loại đồ lễ thì được coi là càng có hiếu với ông bà, tổ tiên. Lễ vật bao gồm hai thể loại chính:

          * Lễ vật chế biến từ thực vật:

          - Xôi cốm ( Mả dủ): 10 gói;

          - Các loại rau, củ quả: mướp, mak hói; bí xanh, bí đỏ, bầu, măng: mỗi loại từ 1-2 kg đồ chín bày vào mâm;

          - Đu đủ chín: 2-3 quả;

          - Chuối chín: 2 nải;

          - Mía: 2 cây (chặt thành đoạn ngắn);

          - Một số món ăn được chế biến từ thực vật (món ăn truyền thống của người Kháng): cây ráy muối chua (ba Tắm); Nõn chuối nộm; cây búng báng nộm, hoa riềng; rau thập cẩm đồ chín rồi nộm, măng đồ cách thủy…

          * Lễ vật chế biến từ động vật, côn trùng:

          - Cá gỏi (Ca cỏi): 1-2kg;

          - Cá nấu canh măng chua (Ca canh bà blăng)

          - Cá nướng cả con (Ca hịp): 5-6 con

          - Cá nướng gập (Ca híp tộp)

          - Cá đồ (Ca đụp boi)

          - Gà luộc (Dia tỏm): 1 con (khoảng 1kg)

          - Gà nướng (Dia hịp): 1 con (khoảng 1kg);

          - Tiết canh: 1bát (Nưởm đách);

          - Thịt lạp (Nửa pla)

          - Thịt băm gói lá nướng (Ca ộp)

          - Cua đồ chín (Bô hia);

          - Nhái gói lá đồ cách thuỷ(Bố đắc).

          - Thịt dúi (Bố đéc)

          - Thịt chuột (Bố ha)

          - Thịt dơi (Bố bé)

          - Thịt sóc (Bố clay)

          (Ngoài các lễ vật trên nếu gia đình có điều kiện thì mổ 1 con lợn khoảng 20 kg, luộc lên làm đồ lễ cúng)

          * Đồ chấm

          - Muối ớt (Liền ướt): 1đĩa;

          - Nước măng chua cho ớt và gia vị (Băng ba xó);

          - Nước măng chua khô: Băm nhỏ măng chua đã phơi khô, trộn thêm các loại rau thơm, ớt, cho thêm nước lạnh vào, trông đều thành món nước chấm đặc biệt để chấm cá gỏi hoặc rau.

          * Đồ uống

          - Rượu nấu (Hả siêu): 5-6 lít;

          - Rượu cần (Hả xả): 3 chum to;

          * Các đồ khác:

          - Bát: 20 cái;

          - Đũa: 20 đôi;

          - Chén uống rượu: 20 cái

          - Một cây hoa (Săng ngặt): Thân cây hoa được làm bằng 1 cây nứa nhỏ đường kính khoảng 5cm, cao khoảng 2m; từ gốc lên khoảng 1m dùng 2 thanh tre nhỏ gắn vào thân cây nứa theo hình chữ thập thành 3 tầng thể hiện cho 3 tầng của vũ trụ; trên đỉnh của cây nứa cắm một bó hoa; trên thân cây gắn những các dây hoa, hạt cườm, bông lúa chín, các con vật đan bằng tre: cá, trâu, bò, chó, ve sầu...Đây là đồ tượng trưng cho các con vật có trong thiên nhiên; rượu trắng được đổ vào hai ống tre, nút lá chuối buộc vào thân cây hoa; đặt 3 chum rượu cần cạnh cây hoa.

          Dùng mâm đan to lót lá chuối để đựng thức ăn gồm:

          - Thức ăn mỗi món để hai bát, đồ khô thì bỏ vào lá chuối 

          - Ba chum rượu cần được mở sẵn, cắm cần để cạnh mâm cúng

          - Vị trí đặt mâm cúng là chỗ bàn thờ tổ tiên và giữa nhà.

          Nói chung lễ vật bao gồm những sản phẩm dưới ruộng, trên nương có những gì đều chế biến để dâng lên ông bà, tổ tiên; ngoài ra người ta còn dùng thịt những con thú, côn trùng chuyên phá hoại mùa màng để chế biến thành đồ lễ, điều này còn có ý nghĩa để răn đe những loại thú rừng, côn trùng chuyên phá hoại mùa màng.

          Khi lúa nương chín, người ta gặt về làm gạo cốm để đồ xôi, làm gạo để nấu bánh chưng, làm rượu. Tính từ khi gặt lúa đến khi tổ chức được Lễ mừng Cơm Mới phải mất từ 7-9 ngày. Bà chủ nhà lấy gùi lúa non hôm đầu tiên ra tuốt và phơi cho khô rồi cho vào chõ sôi lên cho chín rồi đổ ra phơi nắng cho khô để giã làm xôi cốm (khảu hang). Số gạo mới được dành một phần để nấu rượu cần từ 3 đến 4 chum. Rượu cần phải từ 7 ngày trở lên và để lâu hơn thì càng ngon càng mạnh. Khi rượu cần ủ được trên 7 ngày thì chọn ngày tốt để làm lễ.

          Trước đây, người ta chỉ dùng những sản phẩm nông nghiệp: xôi, rau củ quả, côn trùng, thịt thú rừng, rượu….Người ta cho rằng ông bà, thần linh đã trông nom, phù hộ để được những sản phẩm đó từ nương rẫy nên trên nương, trong vườn có những loại sản vật nào đều phải đặt lên mâm lễ để cúng tạ ơn. Ngày nay, do đời sống khá hơn, người ta đã thêm nhiều loại lễ vật khác vào mâm lễ: thịt lợn, thịt gà, bánh kẹo… vừa làm lễ để cúng tạ ơn ông bà tổ tiên, vừa để mời bà con dân bản cùng hưởng lễ vật sau lễ cúng.

1.3.2. Bàn thờ:

           Bàn thờ thường được đặt ở gian giữa của ngôi nhà, cạnh bức vách phía sau, cạnh nơi ngủ của vợ chồng chủ nhà. Gian thờ không có bát hương mà chỉ có hai tấm liếp đan bằng tre vuông góc với nhau (Piêng cà tà), làm trụ cho 2 tấm liếp là một cây nứa dài khoảng 2 m (Mạy tẳng bóng), cây nứa vừa tượng trưng cho cây cột nhà thờ, vừa có ý nghĩa nối âm dương, con đường dẫn bố mẹ, ông bà, tổ tiên về với con cháu. Ngoài ra, còn treo một chiếc chài lưới (Phưn he) có ý nghĩa trừ ma tà. Góc thờ tượng trưng cho nơi trú ngụ của linh hồn bố mẹ, cũng chính là linh hồn của ma nhà. Ngày thường thì góc thờ không bày biện gì, chỉ đến khi nhà có lễ cúng thì gian thờ mới được dọn dẹp và nó trở nên rất đỗi linh thiêng vì ma nhà được gọi về trú ngụ ở đó. Những gia đình bố mẹ chưa mất thì không có góc thờ.

1.3.3. Đạo cụ cho lễ hội: Ngày hôm trước, các thành viên trong gia đình đã chuẩn bị làm cây hoa (Săng ngặt); làm ống tre để múa tăng bu; làm đàn Kơ dơng để múa.

1.3.4. Vật chất của lễ hội

          Ngoài phần lễ để cúng thì gia chủ thường làm thêm thức ăn, xôi, rượu để mời bà con trong bản đến ăn cơm, uống rượu góp vui với gia chủ.

2. Diễn biến của lễ hội

2.1. Phần Lễ:

2.1.1. Trình tự buổi lễ:

          Ngoài các đồ lễ đã được chuẩn bị thì ngày hôm trước, ông bà chủ nhà đã đi quăng chài lấy cá, tìm kiếm các loại côn trùng, rau, măng về chuẩn bị sẵn. Sáng sớm của ngày tổ chức lễ hội, ông bà chủ nhà và các thành viên trong gia đình đã chuẩn bị các lễ vật. Sau khi nấu nướng xong, ông bà chủ nhà dọn gian thờ, bày lễ vật lên mâm để cúng. Trước đây, người Kháng không có tục thắp hương mà chỉ đặt lễ và cúng khấn. Ngày nay, do du nhập phong tục của người Kinh, người Kháng cũng đã thắp hương trong lễ cúng.

          Có 03 lễ cúng chính:

          Lễ thứ nhất: Lễ mời. Ông chủ nhà bê đồ lễ gồm: 01 con gà luộc; 02 chiếc bát con, 01 chiếc đựng nước luộc thịt gà làm canh, 01 bát đựng một nắm xôi nhỏ; 01 nải chuối chín. Ông chủ nhà đặt mâm lễ vào góc thờ, thắp 02 cây hương cắm lên mình con gà rồi bắt đầu cúng. Đại ý của lời cúng là: Hôm nay, ngày lành tháng tốt, con cháu làm Lễ hội mừng cơm mới, mời tổ tiên, ông bà, bố mẹ về hưởng lễ vật, vui chơi cùng các con cháu. Ông chủ nhà cúng xong, mâm lễ vẫn được đặt nguyên ở góc thờ.

          Lễ thứ hai: Lễ chính: Toàn bộ đồ lễ được bày lên hai mâm lớn đặt giữa nhà, cạnh cây hoa và 3 chum rượu cần. Ông chủ nhà ngồi cạnh mâm lễ cùng với những người cao tuổi trong họ, trong bản. Ông chủ nhà, đại diện cho cả gia đình một tay vít cần rượu, khấn mời ông bà tổ tiên về ăn lễ, hưởng lộc, cơm mới.

          Bài cúng của Chủ nhà (hoặc thầy cúng)

Po đẳm me đẳm hơi

Té cai hai cón ma

Su cọ âu căn dệt hươn dệt dảo

Chắng sinh ngọ ók mi

Sương bón lụ bón tẩu

Po me cọ liệng sung - chung mả

Chắng nháư piêng ao

Chắng dao piêng po

Nháư piêng bung ha bung

Sung piêng sạ ha sạ

Mả piêng po piêng me ha hươn

Sương bón po bón me

Sương bón ta bón nai sáu

Cỏ nhăng hặc nhăng panh

Tỏn hặp chặc chung

Chắng đảy khảu hôm khảu dên

Pày pên lụ pên tảu

Pày pên lẻ pên khươi

Chạư đín chạư phay

Nẳng ta nẳng nai

Nẳng po nẳng me sáu

Chọ chăm dú khươi sam pi sí khảu

Khươi cẩu pi síp mua

Há va cọ hê họt sam pi sí khảu

Hê họt cẩu pi sip mua cá đaư

Há va ta nai cọ nhăng hặc nhăng panh

Bít nả canh - bánh hua chaư

Khá lông pông hảư

Ma dệt dảo cin hươn dú

Ma liệng pú liệng da

Ma dệt hay na na quảng

Dệt toi bản toi khuống

Chắng họt má họt mua

Quam chiên sáu va

Dệt cin mi bươn

Dệt hươn mi mự

Chắng ma họt mự hai li

Ma họt mự si chảnh

Lựa đảy mự hai nhọt

Lựa đảy mự pót saư

Chắng phắc pạ khảu đông

Chắng pa thông khảu láu

Pẳm mạy nháư lăm na

Lao pá hu pá sa dệt hay

Tắt cốc mạy chắng tai

Tắt pai mạy chắng hiếu

Phay sáư bẳng mưa chọ

Phay sáư trók mưa phau

Phay mọt pên thán lai

Phay tai pên tâu sẩu

Chắng âu khảư chựa mưa năm

Pể khảu púk khảư phăn mưa dai

Năm sí mự chắng tậu nả

Năm hả mự chắng tậu tin

Chắng quát đin thôm khum

Chắng phẻo mun thôm pák

Ta vên tốc chắng nhá ha hươn

Ta vên chươn chắng nhá ha dảo

Chắng bó hảư khuôn po đẳm me đẳm mưa hé

Chắng sắng khuôn po me mưa lăm mưa lu

Nha hảư nu cuột ók

Nha hảư họ cuột pày

Nả cáy chọp phôn tặp

Năm lẹo chọp phôn lông

Tiêng cưn mươi phông tặp khum lủng

Sam mự khảu chắng ngọ

Sí mự ók pộn khum

Pên sum khửn sọng nó

Co cắm khửn piêng eo

Khảu co kheo piêng bá

Chăn sưa pá lau tênh na

Chăn sưa pá ca tênh bản

Chăn sưa pá sản pá ngoa tênh nong

Chăn thuổm cô thuổm khon

Họt bươn khảu chắng chông

Man nháư cơ man lau

Man pâu cơ man ca

Khảu chắng nhạ ók huông

Mu long bấu ma chuôn

Quang phan báu ma tốc

Nộc trók báu cắt pít

Nộc chíp báu cắt huông

Khảu nẳng hay chắng lương

Phương nẳng pu chắng hưa

Họt mự tắm căm chi

Họt mự đi vên chăn

Lụ tảu chắng khắm kiếu mưa tan

Chắng khắm can mưa háp

Tan ca sók đảy ba

Tan ca va đảy lúng

Têm lúng nháư po pa

Têm lúng na po pể

Khôn sáư dia tảư cọ lưa

Khôn sáư dia nưa cọ lộn

Chắng âu khảu sáư chộc lông tỏng

Khảu sáư lỏng mạy lứa lông tăm

Chắng sâng sia hăm lẹp

Chắng phát pẹ kép nhán

Khảu san chắng má dệt ngai

Khảu cốc khảu pai chắng má dệt lảu

Nửng sáư hay mạy sọ

Nửng ai ók chắng pông

Nửng ai lông chắng thấu

Thấu sáư biên lai cộng

Thấu sáư lổng mạy hốc san tăm

Thả măn dên chắng ma qua pảnh

Chắng pản lảu sáư tong

Đảy song cưn chắng nhiệt

Chắng nhiệt sáư hay bắc

Chắng tắc nhiệt sáư hay ham

Tẳng lảu chắng tẳng ty piêng

Hiêng hay hiêng ty quảng

Đảy hốc mự lẩu chắng khôm phết

Đảy chết mự lảu chắng khôm hom

Khảu mảu âu ma sang

Khảu hang âu ma nửng

Mi cá sổm pa bong

Mi hịt khong tong chặn

Mi phủ chạư tắc nặm sáư hay

Mi côn choi khày pứt múak

Mi côn choi pắc búa mạy khoang

Mi côn choi la pan khái lảu

Mự nị lụ tẩu phai khảu máư

Chắng pông quam áo

Cáo quam mơi po đẳm me đẳm

Ngoại nả ma – khoang ta tẩu

Ma cin lảu khảu máư lụ phai

Ma khánh lảu sa bai lụ tẩu

Lảu hay nháư piêng eo

Lảu hay keo piêng bá

Cin cá nhứa mú nháư tô pi

Nhứa mu li đăm pót

Táp mản sót khong panh

Lượt đanh khong cin líp

Híp lú sảng lú cọ ai hom

Mi cá le pa bong pa sổm

Nặm tổm cáy cin ban

Khong cin li dú pan hom hạu

Cin cá khảu hay lao hom co

Khảu hay lo hay mua hom pák

Mi cá dảy cá dúak tin pen

Mi cá canh má buốp pài doi

Mi cá canh má noi chom sặng

Mi cá nó hốc hẩu chẳm chéo luông tăm

Mi cá mẳm pa pịt thứk say

Cỏi nay nong tô mạu

Khảu mảu ón coi phai

Khảu hang hom coi kiệu

Cin lẹo chắng coi hí coi hen

Chắng coi hý tin phen

Chắng coi hen tin sửa

Tốc nặm nha mi ngựa bai bá

Tốc ta nha hảư ngựa bai khen

Nha hảư mi côn hâng côn ken dệt hại

Dệt săng hảư li đảy

Cạy săng hảư li pên

Hom ngân hảư đảy lăm

Hom căm hảư đảy pók

Ngân căm lính ma hạu

Khảu nặm lính ma tu

Liệng mu hảư mi păn kha

Liệng ma hảư mi păn canh

Tảnh pết hảư pết sáy

Tảnh cáy hảư cáy pe

Tảnh bẻ do pên pưng

Ngua quai hảư têm lang

Mỏ áng hảư têm hươn

Lịn hảư mạ - pá hảư dăm

Pák Tay hảư nể nả

Pák Sả hảư nể quam

Năng pan mi côn chạư

Pày tảư mi côn phưa

Mưa nưa mi côn chiên háp

Áp nặm mi phủ chệt hứa si cay

Pi nả dệt hay khảu hảư tứm huông na

Dệt hay nga đăm hảư chăn bók

Dệt hay nga ló hảư chăn tổn

Tô bổng nha cắt pít

Chí hịt nha cắt baư

Daư sao nha kiểu nhọt

Mọt phạ nha cót lăm păn lăm

Nhăn phay nha lông phá

Nhăn phạ nha lông hon

Nha mi bổng hua sắn

Nha mi nhăn hua lai

Nha dệt co tai lương hăm hạn

Nha dệt co tai mạn tai hiếu săm sơn

Chơ chông hảư pộp mó

Ók huông hảư pộp phôn

Dệt hay lo hay mua hảư huông côm mạ siếp

Mạ siếp cơ sáy pu na

Mạ saư cơ sáy pu huổi

Hảư đảy khắm ciếu mưa tan

Hảư đảy khắm can mưa háp

Háp sáư dia luông têm nẻn

Sáư dia pẻn lạu nháư têm piêng

Hảư đảy dú pá dia khai khảu

Dú pá lạu khắm liêng âu ngân

Đảy săng đảy cón si

Mi săng mi cón tan

Hảư pá dăm ăm cổm

Coi cụm coi cuôm lụ tảu nơ./.

 

Dịch nghĩa tiếng Việt của lời cúng là:

Ông đẳm, bà đẳm ơi

Từ năm xưa năm trước

Bố mẹ đã xây dựng gia đình

Mới có sinh có nở

Con mới được sinh ra

Bố mẹ nuôi khôn lớn

Lớn bằng chú - cao bằng bố

Lớn bằng cái bung muốn có bung

Cao bằng cái sọt muốn được sọt

Lớn bằng bố mẹ muốn xây dựng gia đình

May có chỗ ông chỗ bà

Có chỗ bố mẹ vợ

Họ cũng yêu cũng thương

Họ đã đón đã mừng

Mới được vào ở chung nhà

Bố mẹ cho làm con

Bố mẹ cho làm rể

Giúp chẻ đóm nhóm bếp

Ở trong nhà bên vợ

Lẽ ra phải ở rể đến bốn năm mùa lúa

Làm rể đến chín mười năm mùa nương

Nhưng ở rể chưa được ba, bốn năm

Làm rể chưa được chín, mười mùa

Nhưng bố mẹ vợ yêu thương

Một trái tim chia sẻ

Gả con gái về làm dâu

Cho chúng con xây dựng nhà cửa

Ở trong bản trong làng

Ở cùng họ hàng anh em

Về đến mùa làm nương rẫy

Câu ca dao thường nói

Làm ăn có tháng

Làm nhà có ngày

Về đến ngày dần tốt

Về đến ngày thìn đẹp

Chọn được ngày lành

Chọn ngày được ngày đẹp

Mới cầm dao lên núi

Mới đeo túi vào rừng

Chặt cây to làm rẫy

Phát cây nhỏ làm nương

Chặt gốc cây mới đổ

Chặt ngọn cây mới héo

Mới lấy lửa cho ống lên châm

Lửa cho ống lên đốt

Lửa tắt để lại than

Lửa tàn còn tro bụi

Mới lấy thóc giống lên gieo

Đeo thóc giống lên trồng

Gieo 4 ngày mới hết

Trồng 5 ngày mới xong

Mới gạt đất lấp hố

Mới quét bụi lấp miệng

Mặt trời chiều mới tan

Mặt trời lặn mới nghỉ

Mới bảo hồn ông đẳm bà đẳm đi trông

Mới dặn hồn ông bà đi canh đi giữ

Đừng cho chuột bới ra

Đừng cho sóc gắp mất

Gà gáy thì mưa sa

Trồng xong thì mưa xuống

Nửa đêm sương bay rơi ướt hố

Ba ngày lúa nẩy mầm

Bốn ngày mọc khỏi hố

Mọc tua tủa như măng

Cây cao đến ngang bụng

Lúa xanh cao ngang ngực

Tốt hơn rừng cỏ lau trên đồi

Xanh hơn bãi cỏ gianh trên bản

Đẹp hơn rừng cây sung cây vả trên ao

Cao ngập cả gốc cây

Đến tháng lúa mới trổ

Bắp to như bắp măng lau

Bắp dầy như bắp măng ca

Lúa mới trổ ra bông

Lợn rừng không đến ăn

Hươu nai không đến phá

Chim sẻ không cắn cọng

Chim chích không cắn bông

Lúa trên nương mới chín

Rơm trên núi mới vàng

Đến ngày lành ngày đẹp

Đến ngày lành ngày tốt

Các con mới lấy liềm đi gặt

Mới cầm đòn đi gánh

Gặt bằng khửu được gánh

Gặt bằng sải được gùi

Đầy gùi to đủ mang

Đầy bung to đủ gánh

Đổ vào bồ dưới cũng thừa

Đổ vào bồ trên cũng đầy cũng ắp

Mới lấy lúa xuống cối

Mới lấy thóc xuống giã

Mới sàng hết tấm mịn

Mới sảy sạch cám bay

Gạo trắng lấy nấu cơm

Gạo sảy lấy làm rượu

Nấu trong chõ cây sọ

Thấy hơi bốc mới cho xuống

Thấy hơi lên mới cất

Đổ vào cái biên tròn

Đổ vào cái mẹt cây bương

Chộn men xong đem ủ

Được hai đêm mới nhồi

Mới nhồi vào chum bé

Mới múc nhét vào chum to

Đặt chum đặt chỗ bằng

Để chum để chỗ rộng

Được 6 ngày rượu mới đắng ngọt

Được bảy ngày rượu mới đắng thơm

Lúa mới mang về giã làm cốm

Gạo mới mang về nấu cơm thơm

Có cả cá ướp chua

Lễ vật đủ mọi thứ

Có người chuyên múc nước

Có người giúp mở chum

Có người giúp cắm cần

Có người giúp đặt mâm rót rượu

Hôm nay các con làm cơm mới

Có lời khấn lời mời

Mời ông đẳm bà đẳm

Ngoảnh mặt lại, liếc mắt sang

Về uống rượu lúa mới con mời

Về thi uống rượu cần trong sọt con cháu

Rượu chum to cao ngang lưng

Chum người Kinh, người Lào cao ngang cổ

Ăn cả thịt lợn to lợn béo

Thịt lợn bản lông đen

Thơm ngon miếng gan nướng

Tiết tươi thứ ăn ngon

Cả kẹp xương sườn nướng

Có cả đĩa cá ướp, cá chua

Nước luộc gà ăn ngọt

Của trong mâm các thứ thơm ngon

Ăn cả cơm nương cho thơm cổ

Cơm nương sớm nương mùa ngon miệng

Có cả nõn chuối rừng

Có cả canh quả mướp trên dây

Canh quả bí trên giàn

Cả măng bương búp to

Có cả mẳm cá pịt mắc đơm

Gỏi chép ao béo mập

Gạo cốm thì tay bốc

Cơm cốm thơm miếng dẻo

Ăn xong hãy che chở

Phù hộ cả mũ khăn

Che chắn cả áo quần

Xuống sông không có thuồng luồng kéo tay

Xuống bến không có thuồng luồng kéo áo

Đừng cho người ghen ăn tức ở

Làm gì cũng làm được

Nghĩ gì cũng làm nên

Gom bạc được bạc nén

Gom vàng được vàng thỏi

Tiền bạc chạy vào hòm

Thóc lúa chạy vào cửa

Nuôi lợn có nghìn chân

Nuôi chó có nghìn đùi

Nuôi vịt có vịt đẻ trứng

Nuôi gà có gà nhiều con

Nuôi dê phát triển thành đàn

Trâu bò đầy gầm sàn

Xoong nồi đầy gian bếp

Ăn nói có người nghe

Nói người Xá nể mặt

Nói người Thái nể lời

Ngồi mâm có người hầu người hạ

Đi xuống phía dưới có người dìu

Đi lên phía trên có người chuyển gánh

Đi tắm có người kì cọ

Năm tới làm nương lúa cho thêm bông dầy

Làm nương vừng đen cho đẹp hoa

Làm nương vừng trắng cho đẹp quả

Con sâu không cắn gốc

Con dế không cắn cành

Mạng nhện không cuốn ngọn

Mọt trời không đục thân

Sâu lửa không xuống phá

Sâu trời không xuống hại

Đừng có bọ lắc đầu

Đừng có sâu lắc cổ

Đừng làm cây chết vàng

Đừng làm cây chết héo

Lúc có bắp cho gặp sương xa

Lúc trổ bông cho gặp mưa xuống

Làm nương sớm nương mùa cho mẩy hạt

Hạt mẩy như trứng cua đồng

Hạt sáng như trứng cua đá

Chủ nhà được cầm liềm đi gặt

Được cầm đòn đi gánh

Gánh cho bồ to đầy ắp

Gùi cho kho gỗ tràn đầy

Cho các con được ngồi miệng bồ bán thóc

Ngồi cửa kho cầm cân lấy tiền

Ước gì cũng được trước người ta

Làm gì cũng được trước thiên hạ

Nói phải có người phục người nghe

Hãy phù hộ cho con cho cháu nhé./.

          Lễ thứ ba: Lễ tạ. Ông chủ nhà khấn xong, những người già ngồi xung quanh cùng đồng thanh mời tổ tiên, ông bà, bố mẹ về vui Lễ hội mừng cơm mới. Sau đó, ông chủ nhà cùng nh gắp mỗi thứ đồ lễ một chút cho lên một chiếc mâm nhỏ, mâm lễ nhỏ này phẩi có đầy đủ tất cả các món ăn trong mâm lễ lớn không được thiếu thứ gì. Ông chủ nhà bê mâm lễ nhỏ này vào góc thờ để tiếp tục mời tổ tiên, ông bà, bố mẹ thưởng thức. Ông chủ nhà khấn cúng, đại ý là: mời tổ tiên, ông bà, bố mẹ thưởng thức các món ăn, cám ơn bố mẹ, ông bà. Mâm lễ này cũng được đặt ở góc thờ mấy ngày để ma nhà thưởng thức. Phần lễ kết thúc ở đây.

2. 2 Phần hội:

           Ông chủ nhà mời tất cả mọi người lần lượt uống từng chum rượu cần, mỗi người phải uống được một lượt của một chum và ăn một chút các món ăn trên mâm lễ. Mỗi người uống rượu và ăn lễ xong đều nói những lời tốt đẹp để chúc gia đình mạnh khỏe, mùa vụ bội thu...

Trong khi ăn uống, người ta tổ chức thi uống rượu cần, múa tăng bu, Kơ dơng, hát đối...để mọi người cùng vui.

2.2.1 Tổ chức thi uống rượu cần: 

            Những người đến mừng lễ bất kể nam hay nữ, trai hay gái đều được tham gia thi uống rượu cần. Họ tổ chức bốc thăm có thể thi uống đơn, uống đôi, uống cặp nam nữ hoặc thi uống tập thể tuỳ theo số lượng người tham gia nhiều hay ít.

           Luật chơi:

            Mỗi người, mỗi cặp hoặc mỗi tổ sẽ phải thi uống trong 3 hiệp, thời gian thi uống được tính theo nước rót hết trong sừng trâu từ 2 - 3 sừng tuỳ theo sừng to hay nhỏ và do tập thể thống nhất. Cử một người làm trọng tài  gọi là (cóng lảu). Khi uống xong hiệp (cóng lảu) lại lấy sừng trâu múc nước đổ vào chum rượu để đong đếm số lượng. Ai uống được nhiều hơn là người thắng cuộc, ai uống được ít hơn là người bị thua cuộc gọi là (tốc lảu). Người thua cuộc (tốc lảu) sẽ bị phạt uống rượu gấp 3 lần, tức là thua 1 sừng phải uống 3 sừng. Khi nào trọng tài (cóng lảu) có bài mời rượu thì cuộc thi mới được bắt đầu và hết bài mời rượu thì thời gian thi cũng hết. Bài mời rượu rất buồn cười, hài hước làm cho người đang uống rượu không nhịn được phải cười và tất nhiên ai cười nhiều sẽ bị thua cuộc. Bài mời rượu có đoạn như sau:

Mơi lảu khỏi mơi dơ... mơi!

Khỏi pên cóng chẳn tung

Nặm pung khảu sáư hay

Nặm lày khửn mưa búa

Cút của cin lông co

Lảo pi po lông tọng

Chảu báu chọng chí tốc

Sốp báu chúp báu lạo chí sua

Tốc lảu tan chí hua

Xua lảu chí đảy chạy

Tốc nưng đảy chạy sam

Tốc sam hư chạy cảu

É đảy lảu chóng cin

Nha chê hay lảu chứt

Chứt cỏ lảu - thẩu cỏ mia

Kha que cỏ chụ cáu

Tậu khấu chao khấu pâu

Cin phong chao pum saư ẻ tẻ

Chảu báu pẹ hư đảy bé niêng

Khát tung nưng nhăng lai

Khát tung song nhăng nưng

Khát tung sam nhôm búa dơ... nhôm!

Dịch:

Mời rượu tôi mời nhé... mời!

Tôi là trọng tài xin rót

Rót nước chảy vào chum

Nước chảy ngược lên cần

Mút mạnh cho xuống cổ

Nuốt nhanh trôi xuống bụng

Ai không cố sẽ thua

Mồm không mút sẽ thiếu

Thua rượu người sẽ cười

Uống thiếu sẽ bị phạt

Thua 1 phải uống 3

Thua 3 phải uống 9

Muốn được rược cố lên

Đừng chê chum rượu nhạt

Nhạt cũng là rượu -  già cũng là vợ

Chân què cũng là người yêu cũ

Quỳ gối đến sưng vù

Uống cho căng cho tròn cả bụng

Mình không thắng thì được vác cái cổ

Hết một sừng còn nhiều

Hết hai sừng còn một

Hết ba sừng dừng cần... dừng!

           Trong Lễ hội Mừng cơm mới của dân tộc Kháng thì rượu cần và việc uống rượu cần đóng vai trò quan trọng. Người ta dùng loại gạo ngon nhất để làm rượu, rượu càng ngọt, thơm thì càng may mắn. Trông lễ hội, người ta phải uống cho đến khi nào rượu cần thật nhạt mới thôi, nếu rượu cần chưa nhạt thì mùa năm sau không tốt, nên nhà nào tổ chức cũng phải uống cho rượu cần thật nhạt với mong muốn năm sau mùa màng tươi tốt, bội thu. Ngoài rượu thì mọi người đều phải thưởng thức tất cả các món ăn trong mâm, đặc biệt là xôi cốm (Khảu hang), họ cũng cho rằng phải ăn xôi cốm thì mới may mắn, mùa màng năm sau mới tươi tốt, được mùa.

2.2.2    Múa tăng bu (múa chọc ống)

           Trong các khâu chuẩn bị làm lễ mừng lúa mới, một việc không thể quên đó là: chặt cây bương hoặc cây nứa to về cắt làm ống gọi là (Bu) tăng bu nghĩa là: nện ống. Họ múa xung quanh chum rượu, già trẻ, gái trai đều biết múa, những động tác múa tăng bu là nện, chọc ống xuống sàn nhà phát ra những âm thanh từ miệng ống nghe thật rộn rã. Rượu càng say múa càng hăng, càng bốc cứ thế không chương trình, không giờ giấc khi nào mệt và các chum rượu cần đều nhạt thì mới dừng cuộc vui.

2.2.3. Múa đàn Kơ dơng:

Đây là một điệu múa truyền thống của dân tộc Kháng, người ta dùng những cây nứa khô tự chế tác những cây đàn. Những người phụ nữ theo nhịp trống, chiêng và tiếng đàn để múa.

Ngoài ra, phần hội trong Lễ Mừng Cơm Mới còn được tổ chức với các điệu múa dân tộc: xoè vòng, xoè khăn và một số trò chơi dân gian, thể thao dân tộc và giao lưu văn nghệ với một số bản lân cận.

- Ném còn;

- Kéo co;

- Đánh quay.

            * Một số tục lệ kiêng kỵ sau khi làm Lễ Mừng Cơm mới và nghi lễ liên quan:

           Trước khi tổ chức Lễ Mừng Cơm Mới, người Kháng có một nghi lễ đó là Lễ gieo hạt. Lễ này được tổ chức đơn giản, khi gia đình đã trồng xong lúa nương, họ mở một chum rượu cần, đặt vào gian thờ, ông chủ nhà nói lời cúng khấn ông bà tổ tiên để “nhờ vả” họ “trông nom” nương rẫy cho con cháu. Vì vậy, việc tổ chức Lễ hội Mừng Cơm Mới chính là để mời ông bà, tổ tiên về để con cháu tỏ lòng cám ơn, mời hưởng lộc, thành quả lao động sau một mùa vất vả “trông nom”.

            Sau Lễ hội Mừng Cơm Mới, ông chủ gia đình sẽ dùng tre đan mấy tấm phên hình mắt cáo (ta leo), dùng lá lúa và lá xả quấn quanh ta leo rồi lên nương cắm vào chỗ đường đi vào của các mảnh nương (có bao nhiêu lối vào thì cắm bấy nhiêu “ta leo”). Theo quan niệm của người Kháng thì tấm phên hình mắt cáo này sẽ làm cho các loại ma tà sợ hãi vì ma tà cho rằng tấm phên có nhiều mắt hơn chúng. Bà chủ nhà cũng dùng những chiếc lá lúa và lá xả tết thành nhiều sợi dây dài, rồi đưa lên nương đặt ở cuối các mảnh nương, cũng là để trừ ma. Sau một ngày kiêng cữ thì cả nhà lên nương gặt lúa về.

           Lễ mừng cơm mới được tất cả các gia đình trong bản lần lượt tổ chức, có ngày có từ 3-4 gia đình cùng tổ chức. Trong vòng khoảng 1 tuần, cả bản mới tổ chức xong lễ hội.

          Những năm mất mùa, họ cũng vẫn tổ chức lễ hội với mục đích cầu mong năm sau  thần linh, tổ tiên ông bà sẽ  tiếptục phù hộ cho mùa màng sẽ tươi tốt, bội thu.

IV. ĐÁNH GIÁ - ĐỀ XUẤT

1. Đánh giá chung:

          Lễ hội Mừng Cơm Mới của người Kháng ở bản Huổi Tao, xã Nậm Dôn, huyện Mường La được tổ chức có quy mô nhỏ, trong phạm vi gia đình nhưng mang tính cộng đồng cao vì các gia đình trong bản đều tổ chức và đều có sự tham gia của các gia đình còn lại. Việc tổ chức phần lễ được chuẩn bị chu đáo, phù hợp với những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Kháng, phù hợp với cư dân canh tác nông nghiệp nương rẫy, để con cháu nhớ về cội nguồn, tỏ lòng biết ơn các bậc sinh thành. Ngoài phần lễ thì đây là dịp để các hộ gia đình, các thành viên trong bản gặp gỡ nhau, vui vẻ trong bữa cơm thân mật sau một vụ mùa vất vả, mừng thành quả lao động sắp được thu hoạch. Lễ hội còn thể hiện sự đoàn kết gắn bó cộng đồng của đồng bào trong trong bản nói riêng và đồng bào Kháng nói chung.

2. Đề xuất:

          Lễ hội cần được phục dựng, bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp để phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Kháng và các dân tộc khác trong vùng. Cụ thể:

          - Phần Lễ: Được phục dựng nguyên bản theo nghi lễ tập tục của dân tộc Kháng đã được hình thành từ lâu đời.

Tuy nhiên cần bổ sung thêm nội dung về việc thực hiện các luật tục của dân bản trong lời cúng của thày cúng trong buổi lễ như: Nghiêm cấm việc phát, phá rừng làm nương ở rừng đầu nguồn; Nghiêm cấm việc làm bẩn, ô nhiễm nguồn nước chung của bản; Cấm lấy măng, tre, nứa ở các khu rừng khoanh nuôi, bảo vệ; Cấm chăn, thả gia súc trâu, bò, dê…. vào thời điểm gieo trồng lúa, ngô…; Những quy định về an ninh trật tự; Những luật tục về hôn nhân - gia đình; Những quy định về xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hóa, bảo vệ văn hóa… để phù hợp với việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào Kháng nói riêng và bản, xã, địa phương nói chung. Phù hợp với tình hình phát triển chung của tỉnh.

          - Phần hội: Phần hội với các hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng: thi uống rượu cần, biểu diễn văn nghệ, các trò chơi dân gian, tổ chức bữa cơm cộng đồng trong Lễ hội Mừng Cơm Mới. Vì đây là lễ hội được tổ chức trong phạm vi gia đình mà đa số các thành viên trong bản đều trong cùng tham dự  nên phạm vi và đối tượng tham dự lễ hội cần được mở rộng thêm là cộng đồng các dân tộc khác ở các bản lân cận.

V. KẾT LUẬN:

            Lễ hội Mừng Cơm Mới của dân tộc Kháng ở bản Huổi Tao, xã Nậm Dôn, Huyện Mường La là hình thức sinh hoạt văn hóa đặc biệt, một môi trường văn hóa đặc thù, một mảng màu rõ nét trên bức tranh văn hóa đa sắc màu các dân tộc Sơn La nói chung, dân tộc Kháng nói riêng. Lễ hội Mừng Cơm Mới chính là một hình thức thể hiện bản sắc văn hóa tộc người độc đáo, nó chứa đựng những khát vọng, ước muốn tâm linh của đồng bào Kháng. Lễ hội Mừng Cơm Mới có sức hấp dẫn, lôi cuốn mọi người, nó vừa là nhu cầu, là khát vọng của người dân, là dịp người dân vui chơi thoải mái sau một mùa vụ vất vả, là dịp để con cháu nhớ về cội nguồn, tỏ lòng biết ơn ông bà, cha mẹ. Từ Lễ hội Mừng Cơm Mới ta thấy những biểu tượng điển hình của tâm lý cộng đồng dân tộc, nó chứa đựng những quan niệm của dân tộc Kháng với thực tế lịch sử, xã hội và tự nhiên.

           Lễ hội Mừng Cơm Mới ở bản Huổi Tao, xã Nậm Dôn, Huyện Mường La là một trong những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Kháng; “Gạn đục khơi trong” Hạn chế các yếu tố tiêu cực, bảo tồn yếu tố tich cực, truyền thống dân tộc, gắn với các yếu tố tiên tiến hiện đại để phù hợp trong quá trình bảo tồn, khai thác, phát huy. Nhằm đạt hiệu quả tốt nhất phục vụ cho mục tiêu "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

Thuộc loại Tập quán xã hội Hiện trạng di tích Duy trì
Dân tộc Kháng
Số lượng nghệ nhân 02 người Số người thực hành Tập thể bà con trong bản
Số lượng bài bản Có bài bản Số người biết dạy 02 người
Học viên hiện nay Hình thức truyền dạy Truyền miệng
Kỹ năng tập tục
Nguồn lực khác tham gia bao vệ
Chủ thể văn hóa Nhóm/cộng đồng:
Ông/bà - Sinh ngày: - Dân tộc : - Nghề nghiệp:
Địa chỉ:
Ông/bà - Sinh ngày: - Dân tộc : - Nghề nghiệp:
Địa chỉ:
Ông/bà - Sinh ngày: - Dân tộc : - Nghề nghiệp:
Địa chỉ:
Tư liệu

Video lễ hội mừng cơm mới

Ảnh lễ hội mừng cơm mới

Ảnh 1, Ảnh 2, Ảnh 3, Ảnh 4, Ảnh 5, Ảnh 6, Ảnh 7, Ảnh 8, Ảnh 9, Ảnh 10, Ảnh 11, Ảnh 12, Ảnh 13, Ảnh 14, Ảnh 15, Ảnh 16, Ảnh 17, Ảnh 18, Ảnh 19, Ảnh 20, Ảnh 21, Ảnh 22, Ảnh 23, Ảnh 24, Ảnh 25, Ảnh 26, Ảnh 27, Ảnh 28, Ảnh 29, Ảnh 30, Ảnh 31, Ảnh 32, Ảnh 33, Ảnh 34, Ảnh 35 Ảnh 36 Ảnh 37 Ảnh 38 Ảnh 39 Ảnh 40 Ảnh 41 Ảnh 42 Ảnh 43


https://www.zbet.win/news/soi-keo-bong-da