Chi tiết hồ sơ

Tên Khu căn cứ du kích Long Hẹ
Địa điểm bản Long Hẹ , Tỉnh Sơn La
Thuộc Huyện/Thành phố Thuộc Xã/Phường/Thị trấn
Mô tả chi tiết

I. LỊCH SỬ TÊN GỌI:

- Tên thường gọi: Khu căn cứ du kích Long Hẹ

- Tên Địa phương: "Há Trua Ty" theo tiếng Mông nghĩa là thung lũng đá hẹp.

             Xã Long hẹ - huyện Thuận Châu -  Tỉnh Sơn La, là một trong những xã thuộc vùng cao hẻo lánh và đặc biệt khó khăn, đồng bào chủ yếu là người Mông, phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào nương rẫy, trồng lúa, ngô, bầu, bí ... Người Mông có thế mạnh về các nghề thủ công truyền thống như: Nghề rèn, dệt vải, thuê thùa, in sáp ong... Văn hoá truyền thống của người Mông rất phong phú và đa dạng, tạo nên một sắc thái văn hoá riêng và độc đáo. Họ luôn đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, kề vai sát cánh, anh dũng đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ quê hương đất nước. Trong kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Long Hẹ đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tiêu biểu là đội du kích Long Hẹ. Đội du kích được thành lập năm 1949 gồm 30 người do ông Thào Khua chỉnh và Thào Ngọc Lương phụ trách dưới sự chỉ đạo cẩu Ban xung phong Trung Dũng.

II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ, ĐƯỜNG ĐI ĐẾN

             Di tích lịch sử khu căn cứ du kích Long Hẹ nằm tại thung lũng đá hẹp thuộc bản Long Hẹ - xã Long hẹ - huyện Thuận Châu -  Tỉnh Sơn La. Du khách đi đến di tích bằng ô tô, xe máy. Từ thị trấn Thuận Châu 0,5km du khách đi theo đường tỉnh lộ 108, đi 45km tới trung tâm xã Co Mạ, từ trung tâm xã Co Mạ đi 18km là tới di tích.

III. SỰ KIỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ THUỘC TÍNH CỦA DI TÍCH

           Trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, huyện Thuận Châu đã thành địa bàn chiến lược quan trọng để quân và dân ta gây dựng các cơ sở cách mạng, khu căn cứ cách mạng của Khu Tây bắc, tỉnh Sơn La và huyện Thuận Châu.

            Từ năm 1943 tổ chức cách mạng bí mật đầu tiên được thành lập ở Mường La và tỉnh lỵ. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ nhà tù Sơn La, các tổ chức thanh niên cứu quốc được thành lập ở một số địa phương, vận động được nhiều thanh niên hăng hái tham gia hoạt động cách mạng. Cuối năm 1944 ở Bản Lầm - xã Tranh Đấu đã tổ chức được "Hội thanh niên cứu quốc" hội đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân đứng lên chống đi phu, đi lính, chống lại ách áp bức của Phìa Tạo, phong kiến và đế quốc, đoàn kết toàn dân chống lại kẻ thù.

           Bước sang năm 1945, cùng với phong trào cách mạng phát triển rầm rộ trong cả nước trong đó có Sơn La. Phong trào cách mạng ở khu căn cứ bản Lầm, xã Tranh Đấu cũng phát triển mạnh mẽ. Có lực lượng tự vệ hỗ trợ, nhân dân đã cương quyết đấu tranh chống lại các chính sách thu gom thóc gạo, chống nộp thuế cho chính quyền nhân dân, phong kiến đồng thời tích cực góp vũ khí tự tạo, góp tiền, của để giúp đội tự vệ mua sắm vũ khí. Từ bản Lầm, xã Tranh Đấu, cơ sở cách mạng lan rộng khắp nơi trong huyện, đông đảo quàn chúng nhân dân ủng hộ và đi theo cách mạng.

          Dưới sự chỉ đạo của tỉnh bộ Việt Minh, ngày 22/8/1945 lực lượng khởi nghĩa ở Mường La đã kết hợp với bộ phận khởi nghĩa ở bản Lầm, xã Tranh Đấu được quần chúng nhan dân tích cực ủng hộ đã tiến về giành chính quyền tại châu lỵ vào khoảng 2h sáng ngày 23/8/1945. Ngay sau đó uỷ ban cách mạng lâm thời Thuận Châu được thành lập ra thông báo cho các xã, các bản, xoa bỏ chế độ phìa tạo cũ, lập chính quyền cách mạng. Khởi nghĩa giành chính quyền có ý nghĩa hết sức to lớn, xoá bỏ ách cai trị của thực dân Pháp và phong kiến trên mảnh đất Thuận Châu.

           Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dan chủ cộng hoà ra đời nhưng dân tộc Việt Nam hưởng độc lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp lấy danh nghĩa là quân đồng minh vào giải giáp quân Nhật để âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Chúng ngang nhiên cướp phá, bắt bớ cán bộ, âm mưu lập đổ chính quyền dân chủ nhân dân còn rất non trẻ, thủ tiêu những thành quả mà nhân dân ta vừa giành được.

            Trong bối cảnh chung đó, tình hình ở Sơn LA nói chung và Thuận Châu nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Nền kinh tế vốn lạc hậu, chậm phát triển cùng với chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, phát xít Nhật, chính sách bóc lột của chế độ phong kiến, các hủ tục lạc hậu, trình độ dân trí không được mở mang, làm cho đời sống nhân dân hết sức khổ cực, tình trạng đói kém dịch bệnh vẫn bao trùm khắp các địa phương. Chính quyền cách mạng lâm thời các cấp tuy đã được thành lập, nhưng vẫn sử dụng phần lớn các chức dịch cũ, sự giác ngộ cách mạng còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện còn yếu, sự chỉ đạo của tỉnh với Thuận Châu bị gián đoạn bởi Thuận Châu giành được chính quyền chưa được 1 tuần thì quân Tưởng đã kéo vào Sơn La, chúng ngang nhiên bắt bớ cán bộ chủ chốt, phủ nhận chính quyền cách mạng lâm thời.

           Tháng 1/1946, thực dân Pháp đánh chiếm Tuần Giáo, tháng 2/1946 chúng đánh chiếm Lai châu và uy hiếp Sơn La mà tuyến đầu là Thuận Châu. Trước tình hình đó các đơn vị tự vệ chiến đấu đã được điều lên chặn đánh địch ở Tuần Giáo, trong đó có nhiều thanh niên là con em các dân tộc Thuận Châu tham gia trung đoàn 148.

           Tháng 4/1946 thực dân Pháp ồ ạt tấn công xuống Thuận Châu bằng hai cánh quân, một cánh quần từ Tuần Giáo theo quốc lộ 41 xuống chiếm Châu lỵ, một cánh quân theo đường Sông đà tràn xuống Mường Sại, Chiềng bằng, Chiềng không, tiến ra ngã ba Tông Lệnh và án ngữ tại Chiềng Pấc đi Sơn La. Lực lượng vũ trang của ta đã đánh trả một cách quyết liệt, ngăn chặn bước tiến của kẻ thù từ Tuần Giáo đến Mường é, Châu lỵ, Chiềng Pấc sau đó rút dần về Sơn La. Chiếm được Châu lỵ, Chiềng Pấc, thực dân Pháp tiết tục mở các đợt càn quét vào các khu vực Muổi Nọi, bản Lầm, Tranh Đấu, Mường Khiêng, Bó Mười nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, chúng quyết tâm đánh chiếm Sơn La để làm bàn đạp tấn công xuống Hoà Bình, Phú Thọ, thọc sâu vào căn cứ Việt bắc, mở rộng phạm vi chiếm đóng, tấn công sang Lào... thực hiện bằng được âm mưu chiếm đóng 3 nước Đông Dương.

            Trước tình hình đó, Uỷ ban hành chính tỉnh bộ Việt Minh Sơn La đã chỉ đạo tổ chức chuyển hướng đấu tranh chống địch, các cơ quan của tỉnh phải dời xuống Hát Lót, khu vực tỉnh Lỵ hình thành một tuyến phòng thủ từ bản Lầm, Mường Chanh đến bản Pảng, bản Tam, Bôm Nam, Mường Bú, Tạ Bú. Nhiều trận chiến quyết liệt đã diễn ra ở khu vực Tranh Đấu, Bó Mười, Muổi Nọi, điển hình nhất là trận phục kích ở Hang Kọng (giữa Bó Mười và Bản Hìn) quân ta đã chiến đấu quyết liệt, chặn đánh địch suốt một ngày đêm, tiêu diệt nhiều tên địch, thu nhiều loại vũ khí buộc địch phải rút lui và co cụm tại Chiềng Pấc để củng cố lực lượng.

            Chiếm được Thuận Châu, thực dân Pháp tập trung tổ chức bộ máy nguỵ quyền từ Châu đến các xã, bản, gọi bọn thống trị cũ, tầng lớp trên ra lập chính quyền bù nhìn, nhằm bình định lâu dài, chỉ có riêng bản Lầm là chúng chưa lập đựơc tề. Đặt xong bộ máy chính quyền các cấp, chúng khố đàn áp, bóc lột nhân dân. Vùng cơ sở cách mạng như Tranh Đấu và một số nơi bị chúng lùng sục, bắt bớ trả thù những gia đình có con em tham gia kháng chiến. Thực dân Pháp ra sức tuyển mộ nguỵ quân đẻ bổ sung lực lượng quân sự, sử dụng bọn tay sai phản động vào hệ thống mật vụ, chỉ điểm đồng thời ra sức chia rẽ, lừa phỉnh nhân dân. Chúng đưa Bạc Cầm Quý trở về làm Chi châu Thuận Châu.

            Ngày 19/10/1946 Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng đã họp nhận định phải đánh Pháp. Hội nghị đã ra nghị quyết tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính trị trong quân đội, đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu.

            Tại Sơn La, chiến sự đã diễn ra ở phía bắc của tỉnh và chuyển biến mau lẹ, bất lợi cho ta, đòi hỏi lúc này phải có sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ, song Sơn La vẫn chưa có đủ đảng viên để thành lập chi bộ. Tháng 6/1946, Trung ương Đảng chỉ đồng chí Trần Quyết lên trực tiếp làm bí thư tỉnh uỷ Sơn La. Trung tuần tháng 10/1946 hội nghị thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của Đảng bộ Sơn La được tổ chức tại bản Hát Lót (Châu Mai Sơn) tổng số có 8 đảng viên, trong đó có đồng chí Lò Văn Mười là cán bọ ở Thuận Châu đầu tiên được đứng trong hàng ngũ của Đảng.

            Thuận Châu bị Pháp chiếm đóng, đe ẻ chuẩn bị cho mọi điều kiện sắn sàng đánh trả hành động lấn chiếm của kẻ địch, tỉnh đã chỉ đạo và tổ chức mở các lớp cấp tốc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, củng cố phong trào cứu quốc, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, xây dựng khối đoàn kết dân tộc, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng lực lượng du kích địa phương, luyện tập quân sự, vận động nhân dân quyên góp tiền của để mua vũ khí.

            Ngày 19/12/1946, Trung ương Đảng quyết định phát động kháng chiến trong cả nước chống thực dân Pháp xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh (20/12/1946), nhân dân các dân tộc Sơn La quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Thực hiện hiện Nghị quyết của trung ương, ngay 20/01/1948, Bộ tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam ra chỉ thị: Xây dựng Tây bắc thành căn cứ địa kháng chiến.

             Tỉnh uỷ Sơn La đã nhận thức đúng đắn và thấm nhuần sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài mà Đảng, Bác Hồ đã xác định: Để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi một yếu tố quan trọng là phải xây dựng lực lượng du kích, căn cứ địa kháng chiến.

            Để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược nhằm tập trung thống nhất lãnh đạo lực lượng vũ trang, chính phủ ban hành sắc lệnh số 120/Sơn La ngày 25/01/1948 sáp nhập khu X và XVI thành liên khu X gồm 8 tỉnh: Sơn LA, Lai Châu, Lào Cai, Yên bái, Hoà Bình Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Vĩnh Yên. Bộ tổng tư lệnh quyết định thành lập Bộ chỉ huy liên khu và chỉ thị xã dựng căn cứ địa Tây Bắc và giải phóng đồng bào Tây bắc là nhiệm vụ căn cứ cắm bản của liên khu X.

            Tháng 1/1948, Hội nghị đại biểu Đảng toàn liên khu đã họp đề ra chủ chương: Phải phá kế hoạch bao vây biên giới của địch, đưa các đội độc lập và vũ trang, tuyên truyền vào chiến trường hậu địch, xây dựng căn cứ địa Việt Bắc phát động chiến tranh du kích rộng rãi, tăng cường công tác địch vận, phá tan khối nguỵ binh thái.

             Ngày 31/03/1948, Ban xung phong Trung dũng được thành lập, ban chỉ huy gồm có 3 đồng chí: Đồng chí Lê Thanh phụ trách Sơn La chịu tách nhiệm trực tiếp chỉ đạo và phụ trách chi bộ ban xung phong Trung Dũng. Ban xung phong Trung dũng phần lớn là người Sơn la, trong đó có rất nhiều chiến sỹ là người Thuận Châu được lấy từ trung đoàn 148, là những người am hiểu về tiếng nói, phong tục, tập quán, địa bàn nơi công tác. Cùng với việc tổ chức các ban xung phong hoạt động trong lòng địch, mỗi trung đoàn chủ lực chỉ lập một tiểu đoàn tập trung, còn lại phân tán thành các đại đội độc lập về địa phương vận động, tổ chức nhân dân tiến hành chiến tranh du kích, chống địch càn quét tại Sơn La. Sau khi Mộc hạ lập được khu tranh đấu, quân khu đã điều các đại đội độc lập lần lượt đến Sơn LA: Đại đội 860, 870, 818, 834, 822, các đại đội này đã tiến quân vào hậu địch, tuyên truyền gây cơ sở kháng chiến trong quần chúng nhân dân và tổ chức đánh đồn gây cho địch nhiều tổn thất.

             Sau khi ta kiểm soát được phần lớn đất Mộc Châu và một phần đất Phù Yên, việc gây cơ sở trong vùng địch chiếm đóng nhất là ở các huyện phía Bắc của tỉnh là một nhiệm vụ càn kíp không thể trì hoãn, trong khi đó quân khu đã tăng cường cho Sơn La lực lượng vũ trang tuyên truyền gây cơ sở quần chúng và các đại đội độc lập làm áp lực về quân sự. Chính vì vậy, tháng 5/1948 tỉnh uỷ Sơn La quyết định thành lập hai đội xung phong tuyên truyền của tỉnh mang tên "Quyết tiến" và 'Chiến Thắng", hai đội có nhiệm vụ tổ chức tuyên truyền gây cơ sở cách mạng theo dọc biên giới Việt lào và dọc Sông Đà. Cùng với ban xung phong Trung Dũng, hai đội xung phong tuyên truyền của tỉnh đã tích cực hoạt động, vượt qua mọi khó khăn thử thách trong vòng kiểm soát ngặt nghèo của kẻ thù và được sự hỗ trợ của các đại đội độc lập đã tiến hành xây dựng cơ sở cách mạng rộng khắp các huyện.

             Thuận Châu là một huyện nằm cuối tỉnh, cchs xa trung tâm kháng chiến của tỉnh. Do lực lượng cán bộ của ta ít, nên chưa cử cán bộ vào Thuận Châu hoạt động. Thực dân Pháp tổ chức hết sức chặt chẽ từ huyện tới các bản, mường. Chúng ra sức tuyên truyền, lừa phỉnh nhan dân, chúng còn ra sức tô vẽ cho cái gọi là "Xứ Thái tự trị" để chia rẽ hằn thù giữa các dân tộc.

             Để đối phó với các hoạt động của ta ngày càng mạnh, đầu năm 1949, địch tăng cường lực lượng vào Mai Sơn. TRước tình hình đó, ta mở mặt trận ở Mường La buộc địch phải rút quân ở Thuận Châu, ở Phù Yên, Mai Sơn về để đối phó. Song song với các hoạt động quân sự, ta đã phát động các xã của Yên Châu, Mộc Châu đấu tranh vũ trang, thiết lập chính quyền nhân dân, đồng thời tổ chức phá tề, trừ gian, rải truyền đơn, treo cờ trong vùng địch, các đội vũ trang tuyên truyền tiếp tục tiến sâu vào lòng địch để xây dựng cơ sở kháng chiến. Đặc biệt ngày 27/3/1949 đại đội 860 đã tập kích vào Mường La, đại bản doanh của bạc Cầm Quý. Quân ta thu được 10 súng, 9 hàng binh, 4 máy chữ và nhiều quân trang,  quan dụng khác. Mặc dù Bạc Cầm Quý chốn thoát nhưng tiếng vang của trận ta ạp kích này có ảnh hưởng lớn đối với Thuận Châu. Nhân cơ hội này ta tuyên truyền giác ngộ hàng ngũ nguỵ quyền của địch khiến chúng hét sức hoang mang lo sợ, một số nguỵ binh Thái tự đào ngũ về với gia đình, nhân dân tìm mọi cách để trốn phu, trốn lính.

             Trước sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến trong toàn tỉnh, vùng tự do của ta được mở rộng, ta kiểm soát được hoàn toàn Mộc Châu (trừ đồn Mộc Lỵ) Phù Yên, Yên Châu, Mai Sơn, Mường La. Việc tổ chức cho cán bộ và đội vũ trang tuyên truyền vào hoạt động gây cơ sở tại Thuận Châu là hết sức cần thiết.

             Thực hiện chủ trương đưa cán bộ vào hoạt động trong lòng địch, mặc dù Thuận Chau không có các đội xung phong chuyên trách như Mai Sơn, Mường La và một số huyện khác, nhưng ta cũng đã tổ chức lực lượng tiến vào Thuận Châu tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng. Đó là một bộ phận của đội xung phong Trung Dũng, một đại đội độc lập cùng các đồng chí cán bộ dân vận của tỉnh như đồng chí Lương Sơn, Lê Doanh, Lê Sơn, Lê Sao, Anh Châu... một bộ phận của đội xung phong Chiến Thắng của tỉnh đã tiến hành gây dựng cơ sở cách mạng vùng dọc Sông Mã, vùng giáp Mai Sơn và giáp Mường La. Chỉ sau một thời gian ngắn, ta đã xây dựng được cơ sở cách mạng ở Muổi Nọi, Mường Pịn, Mường Piềng, Mường Khiêng và vùng cao Long Hẹ.

              Long Hẹ là một thung lũng hẹp, rừng rậm rạp rất thuận lợi cho việc dấu quân, xung quanh có nhiều hang đá để dân và du kích ẩn nấp khi có bom đạn. Đất đai ở đây màu mỡ có thẻ sản xuất lương thực nuôi quân. Đặc biệt Long Hẹ có lợi thế giao thông rất thuận lợi, khi không bảo vệ được khu căn cứ có thể rút quân len vùng cao Cắn Tỳ, Mường Bám, Điện Biên.

             Tại vùng cao Long Hẹ, đội xung phong Trung Dũng cùng các đồng chí cán bộ dân vận của tỉnh đã bí mật bắt liên lạc với tầng lớp nhân sĩ địa phương như các thống quán: Thào Khua Chỉnh, Thào Ngọc Lương. Được cán bộ tuyên truyền, vận động các ông đã nhanh chóng đi theo cách mạng, tích cực vận động, tổ chức nhân dân giúp đỡ, nuôi dấu cán bộ. Sau khi cơ sở được xây dựng vững chắc, năm 1949 dưới sự giúp đỡ của đội xung phong Trung Dũng, đội du kích Long Hẹ được thành lập do 2 ông Thào Ngọc Lương, Thào Khua Chỉnh phụ trách. Đội đã tập hợp được 30 người, ngày đêm tập luyện dưới sự hướng dẫn của bộ đội Trung Dũng, đội đã tổ chức chống lại sự đàn áp của thực dân Pháp và tăng cường giúp đỡ nhân dân chống đi phu đi lính, nộp sưu nộp thuế. Đội du kích Long Hẹ đã tổ chức được nhiều trận chiến đấu, tiêu biểu là cuộc phục kích tại giếng nước đã tiêu diệt được hai tên lính Pháp, làm cho bọn Pháp hoảng sự. Đội đã có sáng kiến giã lá độc thả xuống giếng để bọn lính đau bụng mà rút quân.

            Cùng với việc chống các cuộc khủng bố của địch vào khu Tranh Đấu, lực lượng vũ trang của ta vẫn tiếp tục tổ chức diệt tề, tổ chức đánh các đồn bốt, uy hiếp phòng tuyến Sông Mã, buộc địch phải rút về các đồn lẻ và tăng cường cho đồn Mường Lầm. Ngày 12/10/1949 đội vũ trang Trung Dũng phục kích địch cách đồn Thuận Châu giết 1 tên lính khố đỏ, làm bị thương 7 tên địch và thu được 1 khẩu tiểu liên, 300 viên đạn. Ngày 21/10/1949 ta tổ chức diệt tề ở đường 41 Muổi Nọi lên huyện lỵ Thuận Châu, đồng thời tổ chức phát động nhân dân đấu tranh với địch ở Muổi Nọi. Như vậy từ Năm 1949 dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh và sự cộng tác phối hợp của các đơn vị chủ lực ta đã liên tiếp tấn công vào sào huyện của kẻ thù khiến chung hoang mang lo sợ. Vì vậy việc xây dựng các cơ sở cách mạng của ta ở một số địa bàn trong huyện diễn ra hết sức thuận lợi, nhân dân kiên quyết ủng hộ cách mạng, bảo vệ cơ sở, nuôi dấu cán bộ, chống các cuộc càn quét khủng bố của kẻ địch. Từ đó các cơ sở của Thuận Châu dàn được mở rộng, kiểm soát được đất đai ở một số vùng Thuận Châu. Tháng 12/1949 uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Thuận Châu được thành lập do đồng chí Lương Sơn (Lường Yến) làm chủ tịch. Lúc này, Thuận Châu mới có một chi bộ gồm 7 đảng viên được cử vào hoạt động tại Thuận Châu chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Với số lượng đảng viên ít, các đồng chí động viên nhau, mỗi đồng chí chịu trách nhiệm một khu vực nhưng vẫn luôn giữ được liên lạc, có sự bàn bạc phân công nhiệm vụ một cách rõ ràng.

             Ngày 01/10/1950 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã họp và phân công đồng chí Đỗ Anh Châu, tỉnh uỷ viên làm trưởng ban cán sự Thuận Châu. Từ đây phong trào cách mạng Thuận Châu dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự Thuận Châu.

             Tháng 191950 các đại đội độc lập trên địa bàn Sơn La rút về để xây dựng trung đoàn chủ lực. Ở Thuận Châu chỉ còn lại đại đội 438 dừng chân ở Long Hẹ, Mường Bám cùng với một trung đội địa phương và một số du kích có nhiệm vụ tiến lên Điện Biên.

             Để chủ động đối phó với địch, ngày 26/1/1950 tỉnh uỷ Sơn LA đã chỉ thị cho ban cán sự Thuận Châu tập trung củng cố vùng cơ sở Mường Pịn, Bản Pàn, Muổi Nọi, Mường Khiêng, Long Hẹ phát triển mạnh mẽ cơ sở bí mật xung quanh huyện lỵ. Vùng Long Hẹ và dọc đường quốc lộc 41 phải phối hợp chặt chẽ và giữ vững liên lạc với đội Trung Dũng, đội Quyết Tiến, Mai Sơn và Mường La; tập trung củng cố du kích xã bản trong vùng tranh đấu, thành lập đội chủ lực, tổ chức và nắm vững du kích người Mông, phát triển võ trang mạnh mẽ trong lòng địch, bám sát và quấy rối địch ở Mường Lầm  đồng thời chặn đánh đường liên lạc tiếp tế của địch ở Thuận Châu về Sơn La. Thời kỳ đầu do lực lượng của địch tương đối mạnh, chúng tấn công một cách ồ ạt, trong khi bộ đội của ta vừa rút về tập trung, du kích và bộ đội địa phương mới được tổ chức, vũ khí còn thiếu do vậy ta ở vào thế bị động.

            Thực hiện chỉ thị của Tỉnh uỷ, ban cán sự Thuận Châu đã chỉ đạo phối hợp chặt chẽ với đội xung phong Trung Dũng và bộ đội địa phương, dân quân du kích kiên quyết chống càn để giữ vững các cơ sở, phá kế hoạch bao vây khủng bố của địch. Ngày 28/2/1950 một bộ phận của đội xung phong Trung Dũng đánh úp vọng gác Tênh Phông (Tuần Giáo) đột nhập vào nhà tên thống lý phản động ở Long Hẹ nhưng tên này chạy thoát. Ngày 8/3/1950 một bộ phận vũ trang của đội Trung Dũng tấn công đồn Mường Bám, địch rút chạy, ta thu được nhiều chiến lợi phẩm. Trước lợi thế của ta, nhân dân vùng É Tòng, Long Hẹ đã tự động cất dấu lương thực, thực phẩm. Trung đội du kích Long Hẹ phối hợp cùng đánh địch. Một số chức dịch của địa phương theo ta chống lại tên thống lý phản động. Ta nhận định tình hình: Tên thống lý chạy thoát thì sơm muộn hắn cũng dẫn địch về khủng bố nhân dấn trong vùng. Nhân cơ hội này ta đã phát động nhân dân Long Hẹ đấu tranh làm cho kẻ địch hết sức bất ngờ. Đội Trung Dũng và du kích Long Hẹ đã phối hợp chặt chẽ, tổ chức hợp lý cho nhân dân kiên quyết đánh trả bọn địch và giành được thắng lợi.

Sau khi giành được thắng lợi ta đã nhanh chóng thiết lập bộ máy chính quyền nhân dân và uỷ ban kháng chiến hành chính Long Hẹ được thành lập gồm 5 đồng chí:

1. Đ/c Thào Khua Chỉnh giữ chức vụ chủ tịch

2. Đ/c Thào Ngọc Lương Giữ chức vụ Phó chủ tịch

3. Đ/c Vừ Giống Sy: Uỷ viên

4. Đ/c Vàng Chống Thào: Uỷ viên phụ trách kinh tế

5. Đ/c Thào Vàng Mua: Uỷ viên phụ trách xã hội

             Đúng như dự đoán của ta, để phá vỡ cơ sở, ten thống lý phản động đã dẫn hơn 100 tên địch từ dồn Thuận Châu lên khủng bố đàn áp khu Long Hẹ, gặp phải sự đánh trả quyết liệt của đội Trung Dũng và du kích Long Hẹ, chúng hoang mang lo sợ buộc phải rút lui. Trước những thắng lợi của quân ta, nhân dân vùng Long Hẹ hết sức phán khởi, đã kiên quyết ở lại bản giúp bộ đội, giúp du kích đánh địch. Ngày 13/6/1950 thực dân Pháp lại tiếp tục điều hơn 200 tên địch từ Thuận Châu do bố con tên thống lý đưa đường lên khủng bố càn quét khu vực Long Hẹ, É Tòng. Lần này chúng dồn dập tập trung, bắt đàn ông đi phu, đi lính, hãm hiếp đàn bà, nộp thóc, gạo, trâu, bò, lợn, gà. Nhờ có sự chuẩn bị và giúp đỡ của bộ đội Trung Dũng, bà con đã kịp thời sơ tán vào rừng tránh sự khủng bố của kẻ thù. Địch đóng quân và khủng bố ở É Tòng và Long Hẹ được 10 ngày thì tiểu đoàn 105 đã huy động 2 tiểu đội về mai phục ở bản Pu Chanh. Do có sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng, vũ khí ta tiêu diệt một số quân địch, thu nhiều vũ khí, buộc địch phải rút khỏi É Tòng và Long Hẹ vào ngày 27/6/1950. Nhân dân vùng  É Tòng, Long Hẹ hết sức phấn khởi, càng tin tưởng vào bộ đội và cách mạng. Đội du kích ngày càng trưởng thành, hăng hái luyện tập quân sự, kiên quyết chống lại địch và bọn tay sai để bảo vệ quê hương, giữ vững cơ sở vùng Long Hẹ, tổ chức các trận phục kích trên đường Thuận Châu đi Sơn La, đường đi Lú Luông... tích cực hoạt động mở rộng cơ sở ở một số nơi như: Mường Lầm, Châu Lỵ, phục hồi các cơ sở bị vỡ, giữ vững được thế cầm cự với địch. Bộ đội địa phương, dân quân du kích các xã được củng cố và trưởng thành trong chiến đấu.

             Đầu năm 1950, tỉnh uỷ quyết định thành lập Ban liên uỷ huyện Mai Sơn - Thuận Châu (còn gọi là Mai - Thuận). Đồng chí Đỗ Anh Châu - Tỉnh uỷ viên trực tiếp làm bí thư liên huyện uỷ. Lúc này cán bộ thiếu phải phân tán đi khắp nơi để chỉ đạo củng cố cơ sở, địch lại khủng bố liên tiếp đánh phá các cơ sở của ta. Mặc dù thiếu cán bộ, nhưng ta vẫn xây dựng được cơ sở trong lòng địch, giữ vững được khu căn cứ để làm chỗ đứng chân cho cán bộ và bộ đọi hoạt động. Tổ chức các cơ sở Đảng được quân tâm củng cố và phát triển. Năm 1950, Thuận Châu có 2 chi bộ: Long Hẹ và Mường Muổi. Các đảng viên được phân công về từng cơ sở để chỉ đạo phong trào trong điều kiện hết sức thiếu thốn về mọi mặt. Nhưng đã quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, lăn lộn với cơ sở, tổ chức tập hợp nhân dân các dân tộc trong vùng đấu lại kẻ thù.

            Bị thua đau chiến dịch biên giới năm 1950, thực dân Pháp tăng cường khủng bố Sơn La nhất là phòng tuyến Sông Mã và đường 41. Để liên lạc giữa Sơn La và thượng Lào, chúng dời sở chi huy quân sự Tây bắc từ Lai châu về Sơn La. Chúng ra sức tuyển mộ binh lính, củng cố và xây dựng công sự, tuyển mộ thêm nguỵ binh cấu kết với bọn quan lại. Quân số của dịch được tăng cường 3.000 tên, trong số này phần lớn là lính địa phương.

             Đầu năm 1951, địch tập trung càn quét vào các khu du kích của ta, âm mưu của chúng là phá vỡ các cơ sở của ta, lấn từng bước để tiêu diệt cơ quan đầu não của tỉnh, phá vỡ khu căn cứ kháng chiến. Tháng 2/1951 địch mở 3 cuộc càn quét lớn đánh vào khu căn cứ của ta ở Mộc hạ (Mọc Châu) nhưng đều bị đánh trả quyết liệt, buộc chúng phải rút lui. Sau trận này chúng tập trung quân hoạt động mạnh ở biên giới Việt lào, khủng bố càn quét quyết liệt các cơ sở cách mạng, khu căn cứ du kích vùng tranh đấu của ta trên địa bàn Mai Thuận. Chúng tập chung quân từ Thuận Châu đến Tuần Giáo càn quét khu Long Hẹ, đồng thời tổ chức thêm một số cứ điểm nhỏ để bao vây Long Hẹ, chặn đường liên lạc Thuận Châu với Lai Châu. Chúng phá vỡ cơ sở Mường Bám, bắt hơn 2.000 dân Mường Bám và Cò Tòng ra tập trung, chúng cướp phá hoa màu, gây cho ta nhiều thiệt hại về kinh tế. Tại Long Hẹ, khi địch đến khủng bố nhân dân đã sơ tán vào lũng lán, du kích Long Hẹ đã cùng với lực lượng bộ đội địa phương tích cực chống càn bảo vệ cơ sở, chủ động canh gác báo động cho dân sơ tán, bám sát, quấy rối địch buộc chúng phải rút lui, cơ sở Long Hẹ được giữ vững.

            Cuối tháng 7/1951 địch tập trung lực lượng lớn mở cuộc tấn công quy mô vào các khu căn cứ mai Thuận. càn quét đến đâu, chúng dồn dân vè ở sát đồn để chúng dễ kiểm soát nhằm cô lập dân với cán bộ và bộ đội. Chúng đốt phá nhà cửa, hoa màu đồng thời giở các thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc nhân dân và những tên tay sai để phá vỡ khu căn cứ của Mai Thuận, Mường Sại, Dong dăm, Mường Mần, Long Hẹ.

             Như vậy, đến cuối năm 1951 đầu năm 1952, các huyện phía bắc của Sơn La lại trở thành vùng tạm chiến của thực dân Pháp. Đất đai bị tạm chiếm, cơ sở bị phá vỡ nên hoạt động của uỷ ban kháng chiến hành chính huyện gặp rất nhiều khó khăn. Sau khi cơ sở bị tan vỡ, chính quyền xã Long Hẹ giải tán, đồng chí phó chủ tịch và trưởng bản được cử đi học lớp cán bộ miền núi, quân du kích được đưa về huấn luyện ở tỉnh đội,  đợi chờ thời cơ thích hợp trở về địa phương hoạt động.

             Cuối năm 1951 đầu năm 1952 tình hình Sơn La nói chung và Mai Thuận nói riêng bước vào hời kỳ gay go quyết liệt nhất, đất đai bị tạm chiếm, cơ sở tan vỡ. Địch khủng bố dồn dân vè sống tập trung ở gần các đồn bốt. Hoa màu bị phá hại, ruộng nước bị bỏ hoang, đời sống nhân dân hết sức cơ cực. Trước tình hình đó, tỉnh uỷ đã chỉ đạo: Bằng mọi cách cán bộ phải được củng cố tăng cường trở lại các cơ sở tổ chức các đội võ trang hoạt động trong hậu địch.

            Để chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc. Tháng 4/1952 trung ương Đảng ra chỉ thị khẩn trương xúc tiến công tác chuẩn bị về mọi mặt cho chiến dịch. Tháng 7/1952 Trung ương đảng quyết định tách 4 tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái từ liên khu Việt Bắc để lập khu Tấy Bắc (Còn gọi là khu XX).

           Ngày 14/10/1952 chiến dịch Tây bắc mở màn. Sau nhiều ngày đêm chiến đấu kiên cường, ta đã đánh tan mọi bộ phận địch và lần lượt giải phóng các huyện thị trong tỉnh. Ngày 21/11/1952 huyện Thuận Châu được giải phóng. Chiến dịch Tây bắc kết thúc thắng lợi, Thuận Châu được hoàn toàn giải phóng, đây là mốc son chói lọi đi vào lịch sử kháng chiến anh dũng của nhân dân các dân tộc Thuận Châu nói chung và nhân dân các dân tộc long Hẹ nói riêng. Thuận Châu giành chính quyền chưa được bao lâu, nhân dân đã sớm đương đầu với sự quay trở lại chiếm đóng của thực dân Pháp, chịu ách cai trị cực kỳ phản động của bọn thực dân phong kiến, nhưng với lòng yêu nước, khát khao độc lập tự do, nhân dân các dân tộc Thuận Châu vẫn luôn hướng về cách mạng, do vậy khi cán bộ vào hoạt động hậu địch, nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng nhanh chóng, vững chắc, khu du kích Long Hẹ được xây dựng sẵn sàng đánh trả lại sự khủng bố, càn quét của kẻ thù để giữ vững căn cứ kháng chiến, ổn định kinh tế, đoàn kết xây dựng đời sống mới, đánh bại âm mưu gây phỉ của kẻ địch, cùng với nhân dân các dân tộc Tây bắc và nhân dân cả nước dồn sức người, sức của, góp phần vào chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

              Chiến dịch Tây bắc kết thúc thắng lợi đã giải phóng một vùng đất đai rộng lớn của Sơn La và Lai Châu. Tuy nhiên, chúng vẫn còn chiếm Nà Sản, thị xã Lai Châu, đồng thời mở các cuộc hành quân lấn chiếm, cài cắm tổ chức gián điệp, lực lượng phỉ để chống đối lại ta. Trước tình hình đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho lãnh đạo, chỉ đạo khu Tây Bắc quyết định chuyển Thuận Chau thuộc tỉnh Lai Châu, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự Đảng Lai Châu. Huyện đã chú trọng mở các lớp huấn luyện cho thanh niên nhằm giáo dục và lựa chọn đào tạo cho cán bộ trong đó có nhiều thanh niên các dân tộc Long Hẹ. Lúc này chính quyền từ huyện đến xã, bản nhanh chóng được củng cố và xây dựng, uỷ ban Long Hẹ được kiện toàn và phục hồi: ông Thào Khua chỉnh làm chủ tịch, ông Thào Ngọc Lương lên uỷ ban huyện, ông Vừa Giống Sy làm phó chủ tịch, ông Thào Vàng Mua làm uỷ viên thư ký, ông Vàng Chống Thào xã đội trưởng, ông Thào Giống Dy làm uỷ viên. Xã Long Hẹ đã có nhiều cán bộ tích cực công tác, đội ngũ cán bộ trong bản cũng đã dần ổn định, nhân dân tin vào cán bộ, vào chế độ mới, phấn khởi bước vào khôi phục kinh tế, ổn định cuộc sống, hăng hái tăng gia sản xuất, góp sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

             Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Long Hẹ đã góp nhiều sức người, sức của cho kháng chiến. Trong hoà bình, nhân dân Long Hẹ ra sức xây dựng cuộc sống mới, chống nghèo nàn lạc hậu, đặc biệt là loại trừ cây thuốc phiện.

* Những thành tích đạt được của quân và dân Long Hẹ

- Xã được tặng 4 huân chương các loại

- 137 bảng vàng danh dự

- 1948 huân, huy chương các loại

- Ngày 20/12/1998 nhân dân các dân tộc Long Hẹ được nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".

IV. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA DI TÍCH

              Khu căn cứ Long Hẹ là một trong những căn cứ địa cách mạng vững chắc, tiêu biểu của tỉnh Sơn La, là dấu tích minh chứng cho Đảng bộ và chính quyền Sơn La thực hiện chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược đó chính là chính sách đại đoàn kết dân tộc, phát huy phong trào yêu nước, xây dựng hậu phương căn cứ, tạo mọi điều kiện cho bộ đội chủ lực tán công tiêu diệt địch, góp phần giải phóng Sơn La và chiến thắng Điện Biên Phủ.

             Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân các dân tộc xã Long Hẹ đã đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến và trong hoà bình, nhân dân xã Long Hẹ ra sức xây dựng cuộc sống mới, chống nghèo nàn, lạc hậu, đặc biệt là loại trừ cây thuốc phiện. Chặng đường lịch sử ấy dưới ngọn cờ của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân các dân tộc Sơn La nói chung và nhân dân Long Hẹ nói riêng đã vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, hy sinh giành được những chiến công to lớn và những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước.

            Với ý nghĩa, giá trị đó di tích góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước cho các thế hệ hôm nay, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khu căn cứ du kích Long Hẹ càn được bảo tồn và là một điểm tham quan du lịch của du khách trong tuyến du lịch văn hoá dân tộc và sinh thái trên vùng cao Thuận Châu.

V. TÌNH TRẠNG BẢO QUẢN

Khu căn cứ du kích Long Hẹ hiện nay là khu rừng tái sinh, đã và đang được xã quan tâm quy hoạch thành khu di tích với diện tích khu 1 là 2ha, được chính quyền và nhân dân giữ gìn không làm nương rẫy.

Khu 2: Khu vực đồn bốt của Pháp hiện nay là khu đồi trọc, xã đã quy hoạch để trồng cây xanh.

Hiện nay di tích đang được chính quyền và nhân dân địa phương quản lý, bảo vệ tốt, di tích cần được xem xét, xếp hạng để làm cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, phát huy giá trị.

Loại hình di sản Di tích lịch sử kháng chiến Chuyên đề
Xếp hạng di sản Xếp hạng cấp tỉnh Năm xếp hạng
Kiến trúc Hiện trạng Xuống cấp
Hiện vật trong di sản
- Di tích hiện nay còn nhiều bức tường xe ép hằng đá hộc, còn 3 nền nhà cũ của các đồng chí trong đội du kích, một chiếc máng lợn được đục bằng đá, một chiếc cối đá. - Các hiện vật của đội du kích Long Hẹ gồm: ống nhòm, súng kíp, kiếm, dao... đã được bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam sưu tầm và trưng bày tại bảo tàng.
Cổ vật Hiện vật mới
Công tác bảo vệ

 

Với nội dung và ý nghĩa lịch sử của di tích như đã phân tích ở trên, Bảo tàng Sơn La đã phân loại di tích này với quy mô đề nghị tỉnh xếp hạng và quản lý.

1. Lập bản đồ quy hoạch khu vực bảo vệ khu di tích khỏi sự xâm hại của con người.

2. Cắm biển báo đi lại, biển nội dung tóm tắt ý nghĩa lịch sử của di tích.

3. Đề nghị xây dựng dự án đường vào di tích.

4. Di tích sẽ được phát huy tốt cùng với khu du lịch của 6 xã vùng cao đang được tỉnh quy hoạch.

Công tác tu bổ tôn tạo
Đất đai trong di sản

Di tích lịch sử khu căn cứ du kích Long Hẹ là một khu rừng tái sinh nằm tại thung lũng đá hẹp thuộc bản Long Hẹ, xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu.

Tư liệu kèm theo

1. Lịch sử Đảng bộ huyện Thuận Châu (1945-200), NXB Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (200).

2. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La (1945 - 1975), NXB Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

3. Sơn La - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp

4. Theo lời kể của các nhân chứng lịch sử.

- Ảnh: Khu di tích long hẹ, ảnh 2

   Ảnh 1, Ảnh 2, Ảnh 3, Ảnh 4, Ảnh 5, Ảnh 6, Ảnh 7, Ảnh 8, Ảnh 9, Ảnh 10, Ảnh 11, Ảnh 12, Ảnh 13, Ảnh 14


https://www.zbet.win/news/soi-keo-bong-da